Tục uống trà của người Việt - P1
Giới thiệu
Khi hoàng hôn bắt đầu nhuộm hồng mặt hồ là lúc các thiếu nữ chèo thuyền ra chọn những búp sen đẹp nhất, lén bỏ vào trong một dúm trà nhỏ. Hôm sau, bình minh còn chưa kịp lên, những dúm trà ướp đầy hương sen đã được cẩn thận mang về. Trà được pha bằng thứ nước tinh khiết hứng từ những giọt sương đọng trên lá sen. Đó chính là thiên cổ đệ nhất trà.
Uống trà là một nét văn hoá lâu đời trong phong tục của người Việt. Từ xa xưa, trà đã được sử dụng hàng ngày như một thứ nước giải khát. Các gia đình trong làng thường luân phiên pha trà mỗi tối để thiết đãi cả làng. Cầm chén trà bên bếp lửa hồng, họ nói những câu chuyện về cuộc sống. Uống trà trở thành cách hun đúc tình làng, nghĩa xóm, làm con người trở nên thân thiện và gẫn gũi nhau hơn. Dần dần, trà trở thành một phương tiện giao tiếp, mở đầu cho những cuộc gặp gỡ, giao đãi người thân, bạn bè, đối tác... Trà giống như một lễ nghi giữ vai trò giao lưu giữa các giai tầng trong xã hội, không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, đẳng cấp.
Trà Việt Nam được chia thành ba loại theo 3 cách thưởng thức trà khác nhau: trà hương, trà mạn và trà tươi. Trà tươi là cách uống trà cổ xưa nhất của người Việt, có lẽ cũng là cổ xưa nhất trên thế giới. Trà được sử dụng hàng ngày thay cho nước lọc, rất phổ biến trong các gia đình ở miền Trung Việt Nam.
Trà mạn là cách uống trà không ướp hương, chú trọng đến tinh thần và cách thưởng trà. Trà mạn có những tiêu chuẩn phức tạp về trà, ấm uống trà, cách pha trà và bạn thưởng trà. Trà hương là trường phái đặc trưng nhất của trà Việt Nam. Đây cũng là loại trà đặc biệt được người dân vùng đất kinh kỳ Hà Nội rất ưa thích. Các loại hoa thường dùng để ướp trà hương là hoa Sói, hoa Ngâu, hoa Cúc, hoa Sứ và hoa Sen. Điển hình nhất cho nền văn hoá trà hương của Việt Nam chính là trà Sen. Người Việt Nam luôn tự hào với công phu tẩm ướp, pha trà và thưởng trà Sen.
Khâu phức tạp nhưng quyết định đến chất lượng của trà Sen là khâu ướp trà. Một cân trà phải dùng đến hơn 1.000 bông hoa sen, mà phải là sen ở đầm Đồng Trị, Thuỷ Sứ, làng Quảng Bá, Hồ Tây. Sen ở đây nổi tiếng với những bông to và thơm hơn hẳn những nơi khác. Hoa sen phải được hái trước lúc bình minh. Bông sen còn đẫm sương được tách lấy phần nhụy hay còn gọi là gạo sen rồi rải đều, cứ một lớp trà là một lớp gạo sen, sau cùng phủ một lớp giấy bản. Ướp như vậy 5 - 6 lần, mỗi lần ướp xong lại sấy khô rồi mới ướp tiếp. Công phu hơn là cách ướp trà trực tiếp lên những bông sen trên hồ của các bậc trà nhân cổ.
(Sưu tầm)
Bài liên quan
-
Hát Páo dung của đồng bào dân tộc Dao, Tuyên Quang
Đối với người Dao (Tuyên Quang) hát Páo dung không chỉ là làn điệu dân ca ngọt ngào, là phương tiện để truyền tải những tâm tư, tình cảm và ước muốn… mà nó đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của họ.
-
Khua Luống của người Thái ở bản Tôm
Cũng như người Thái ở các bản làng miền Tây Thanh Hóa, người Thái ở bản Tôm, xã Ban Công, huyện Bá Thước còn lưu giữ được nhiều nét đẹp trong văn hóa truyền thống của mình.
-
Ting Ning - cây đàn tình của người Ba Na
-
Lễ ăn hỏi của người Khơ Mú
Song hành cùng với sự phát triển của lịch sử qua quá trình tiếp xúc, giao thoa với các tộc người khác, lễ ăn hỏi của người Khơ Mú ở Kỳ Sơn, Nghệ An có những biến đổi nhất định. Chính vì vậy, cần có cái nhìn toàn diện về nét đẹp của bản sắc dân tộc thông qua lễ ăn hỏi.
-
Tục ném trứng trong tang ma của người Hà Nhì