Đặc sắc với Tết nhảy của người Dao ở Ba Vì (P3)
Giới thiệu
Các nghi lễ chính
Một lễ nhiàng chầm đao gồm 3 phần chính là Khai lễ, Chính lễ và Lễ tiễn đưa.
- Khai lễ:
Đúng ngày giờ đã định, hai thầy cúng được gia chủ mời đến bắt đầu lập đàn cúng. Sau phép tẩy uế, thầy cúng thực hiện nghi lễ mở và treo các bộ tranh thiêng của người Dao là bộ Tam thanh, Hành sư lên xung quanh tường nhà. Tiếp đó, thầy sliêu họ bày biện các lễ vật thờ cúng, làm lễ khấn xin được làm Tết nhảy và kính mời các thần linh, Bàn Vương, gia tiên về dự lễ. Lễ này được thực hiện bằng các điệu múa mời như đưa đường, bắc cầu để đưa đón thần linh, tổ tiên về ăn tết.
- Chính lễ
Phần này được bắt đầu từ lễ khai đàn và kết thúc bằng lễ chiêu binh. Xuyên suốt nội dung phần chính lễ là các điệu múa, lời hát kết hợp với tiếng chiêng trống rộn ràng.
Lễ khai đàn do thầy khoi tàn chủ trì với nội dung trình báo công việc chuẩn bị nhiàng chầm đao trước các chư vị thần linh nội ngoại lý và xin được chính thức cử hành nghi lễ. Lễ nhiàng chầm đao được bắt đầu bằng các điệu múa nối tiếp nhau.
Khởi đầu là điệu múa “tam nguyên an ham”. Thầy khoi tàn múa đi trước, theo sau khoảng 10 thanh niên cầm cờ (lá cờ có cán dài khoảng 50 cm) múa với những động tác tung cờ, phất cờ khoẻ khoắn tượng trưng cho sức mạnh của âm binh. Đây là điệu múa có tính chất dạo đầu của Tết nhảy.
Tiếp sau điệu múa “tam nguyên an ham” là điệu múa chính của nghi lễ - múa dao. Múa dao còn gọi là múa “ra binh vào tướng”, một điệu múa rất hùng tráng biểu dương cho tinh thần thượng võ của người Dao.
Những thanh niên khoẻ mạnh đã qua lễ cấp sắc với đạo cụ múa là con dao găm bằng gỗ thực hiện những động tác nhảy, quay, nhún, bật tung người rất nhanh, mạnh, dứt khoát, lướt đi trong tiếng trống, thanh la, não bạt trầm hùng như tái hiện lại những trang sử vẻ vang, oanh liệt của cha ông xưa trong quá trình đấu tranh chống lại giặc giã.
Điệu múa phát nương (còn gọi là múa được mùa): diễn tả quá trình lao động của người Dao từ lúc phát nương cho đến khi thu hoạch với những động tác rất gần gũi trong sản xuất như phát cây, chọc lỗ, tra hạt, gặt, phơi, xay giã...
Điệu múa bắt ba ba: Tất cả những người tham gia múa đều phải mặc trang phục thầy cúng, hai tay cầm 2 chuông nhỏ. Để tiến hành điệu múa này, người ta lập một đàn cúng trên đó có một bát nước, một bát hương, một miếng vải trắng trên đó có gạo và tiền xu rồi lấy mũ ông sliêu họ úp lên trên các lễ vật. Khi bắt đầu múa, chiếc mũ được bỏ ra. Ông khoi tàn múa đi trước, một tốp nam trung tuổi múa theo sau thầy khoi tàn trong tiếng kèn, trống, thanh la, não bạt và tiếng hò hét vui nhộn. Tốp múa đi xung quanh đàn cúng, thực hiện các động tác theo quy ước của dân tộc và theo hướng dẫn của thầy múa, miêu tả hành động tìm ba ba, bắt ba ba, khi tìm được họ xúm lại cùng nhau trói ba ba và cõng ba ba về nhà. Họ diễn tả động tác này theo từng đôi, cứ hai người áp lưng vào nhau, tay lắc chuông diễn tả sự vui mừng. Tiếp theo là múa diễn tả động tác mổ, băm, xào, dâng lên Bàn Vương, thần thánh, gia tiên.
Tất cả các điệu múa trên rất độc đáo, mang tính hình tượng cao. Động tác múa được thực hiện chính xác, liên tục, khéo léo và tinh tế. Người xem không nhận thấy sự thay đổi giữa các điệu múa mà có cảm giác như đang xem một tổ hợp các điệu múa cổ truyền vừa kỳ ảo vừa tưng bừng đến bất tận của dân tộc Dao.
Trong suốt thời gian diễn ra Tết nhảy, các điệu múa được biểu diễn lặp đi lặp lại nhiều lần, mỗi người phải nhảy múa hàng trăm lượt liên tục cả ngày cả đêm trong tiếng chuông, tiếng trống giục giã. Vừa múa họ vừa hát những bài hát cổ xưa với nội dung kể về nguồn gốc dân tộc Dao, về quá trình người Dao vượt biển vào Việt Nam, quá trình mưu sinh trên đất mới, dựng vợ gả chồng, sinh con đẻ cái trong từng gia đình. Những câu hát, điệu nhảy huyền bí làm cho người xem có cảm giác mình đang được sống trong một thế giới khác, thế giới mà quá khứ và hiện tại đang giao hoà.
Kết thúc phần chính lễ là lúc ông chủ đám (sliêu họ) mặc quần áo thầy cúng có thêu rồng đi ra ngoài sân thổi tù và, khấn Ngọc Hoàng thượng đế xuống chứng giám. Sau khi đã được Ngọc hoàng thượng đế công nhận, thầy Sliêu họ làm lễ cúng tiễn Ngọc hoàng thượng đế về thượng đình và bắt đầu làm các nghi lễ chiêu binh.
Thầy sliêu họ khấn cúng các thần, Bàn Vương và gia tiên về ngự trên bàn thờ tổ tiên rồi làm phép thu thánh tướng, âm binh vào một thanh đoản đao, đặt thanh đoản đao lên bàn chân và hất mạnh lên bàn thờ, nếu thanh đao lọt vào trong ngăn thờ nghĩa là các thánh thần, tổ tiên đã chấp thuận, phần chính lễ coi như hoàn thành.
(Sưu tầm)
Bài liên quan
-
Hát Dô - Dân ca nhạc Việt Nam
Về với xứ Đoài để ta được chìm đắm với những làn điệu dân ca ngọt ngào, những loại hình văn hóa nghệ thuật giân gian đặc sắc. Một trong những loại hình nghệ thuật dân gian nổi tiếng ở đây là hát Dô ở xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, thuộc tỉnh Hà Tây cũ, nay là Hà Nội.
-
Phong tục tập quán của nhân dân huyện Tràng Định (P2)
Trước đây việc dựng vợ gả chồng do cha mẹ quyết định, nhưng cũng phần lớn đám cưới được tổ chức theo thuận tình của đôi nam nữ. Lễ chạm ngõ là bước gia đình nhà trai tìm hiểu về gia cảnh của cô gái và xin lấy lá số (ngày tháng năm sinh) của người con gái đem về so tuổi với người con trai xem có hợp tuổi hay không.
-
Củi hứa hôn và phong tục cưới hỏi của người Giẻ – Triêng (P2)
Với số dân khoảng hơn 50.000 người, người Giẻ - Triêng sinh sống chủ yếu tại tỉnh Kon Tum và miền núi tỉnh Quảng Nam. Bên cạnh kho tàng văn học dân gian phong phú, tục ngữ, âm nhạc truyền thống khá đặc sắc, người Giẻ - Triêng còn lưu giữ được phong tục cưới hỏi mang nét riêng biệt.
-
Tục cúng gà trong ngày hội ở Lạc Thổ
Làng Lạc Thổ có tên nôm là làng Chêu, thuộc thị trấn Hồ (Thuận Thành) nằm ở phía bờ nam của lưu vực sông Đuống, có truyền thống văn hoá, phong tục tập quán đặc sắc, trong đó tiêu biểu là tục cúng gà ngày hội làng.
-
Chuh Pơ nú – Nghi lễ tự nguyện của người Jrai, Gia Lai
Đời người Jrai có rất nhiều nghi lễ vòng đời, mỗi lễ có một ý nghĩa tinh thần khác nhau nhưng nếu như những nghi lễ vòng đời là bắt buộc phải có từ khi con người sinh ra và chết đi thì Lễ Chuh Pơ nú là tự nguyện.